Là lĩnh vực liên ngành, “kinh tế sinh thái” kết nối xuyên suốt không chỉ “sinh thái” và “kinh tế” mà còn bao hàm cả các lĩnh vực tâm lý học, nhân chủng học, khảo cổ học và lịch sử. Hiểu rõ kinh tế sinh thái là cần thiết để có được bức tranh tổng thể về cách con người tương tác với môi trường trong quá khứ, cũng như trong tương lai, nhằm thiết kế một tương lai bền vững. Quan điểm chủ chốt của kinh tế sinh thái là phát triển mà không “ám ảnh” với tăng trưởng. Hướng nghiên cứu của kinh tế sinh thái tập trung vào ba vấn đề: Sự phân phối thu nhập giữa mọi người, phân bổ nguồn lực giữa các mục đích sử dụng hàng hóa và đặc biệt nhấn mạnh vào vấn đề thứ ba: Quy mô tối ưu của nền kinh tế.

Trong kinh tế học doanh nghiệp, quy tắc “khi nào nên dừng” hàm ý một quy mô tối ưu đạt được khi chi phí cận biên bằng doanh thu cận biên. Còn trong kinh tế sinh thái vĩ mô khi chi phí biên bằng lợi ích biên, nền kinh tế sẽ đạt mức lợi tức và phúc lợi xã hội tối ưu. Do đó, để đảm bảo được quy mô tối ưu, theo kinh tế sinh thái, việc quản lý nền kinh tế quốc gia hay nền kinh tế toàn cầu phải bảo đảm ba điều. Thứ nhất, tài nguyên tái tạo không được cạn kiện nhanh hơn mức nó tạo ra. Thứ hai, tài nguyên tái tạo không được cạn kiệt nhanh hơn mức tài nguyên nhân tạo được phát triển. Cuối cùng, tốc độ tái chế tài nguyên nhân tạo phải nhanh và nhiều hơn khối lượng tài nguyên thiên nhiên mới được khai thác cho cùng mục đích sử dụng. Chẳng hạn, để giảm rác thải nhựa bền vững thực sự thì tốc độ tái chế nhựa không thể chậm hơn tốc độ sản xuất mới.
“Phát triển mà không tăng trưởng,” theo nhà kinh tế Herman Daly, không có nghĩa là ngừng tăng trưởng giá trị mà là không tăng trưởng thông lượng. Trong sản xuất, thông lượng (through-put) là tài nguyên vật chất khai thác từ tự nhiên và năng lượng được sử dụng cho sản xuất. Ở phạm vi bền vững yếu, thông lượng cần được duy trì ổn định, và giảm dần, trong khi tìm cách gia tăng giá trị kinh tế. Với bền vững mạnh, thông lượng được giảm về không nhờ tuần hoàn và tái tạo, trong khi vẫn có thể tiếp tục gia tăng giá trị, tạo ra tổng phúc lợi nhiều hơn cho xã hội. Trong nền kinh tế không rác thải và không phát thải, khi nguyên vật liệu và năng lượng được tái tạo, tái chế và tái sử dụng tối đa thì sẽ không có lý do gì hạn chế tăng trưởng giá trị kinh tế, gia tăng phúc lợi tổng cho xã hội.
Bền vững là mối quan tâm đa chiều. Để đạt được sự bền vững, thách thức thế giới đối diện là phải cải thiện được mức sống của người nghèo, và điều này đồng nghĩa với tăng mức tiêu thụ, trong khi phải đi giảm dấu chân sinh thái.
Để có phát triển bền vững thực sự, Việt Nam cần phải giữa nguyên hiện trạng vốn tự nhiên như chính sách kiểm soát hạn ngạch đánh bắt thuỷ hải sản – khai thác không vượt quá khả năng của tôm cá sinh sôi (lợi tức vốn tự nhiên); nghiêm cấm phá rừng tự nhiên, đặc dụng và rừng phòng hộ cho mục đích kinh tế ngắn hạn. Bên cạnh đó, Việt Nam cần đẩy mạnh đầu tư công nghệ xanh, chuyển đổi sang năng lượng tái tạo, tranh thủ sự hỗ trợ tài chính xanh từ các đối tác phát triển, ưu tiên cải thiện nguồn vốn con người, và từng bước nâng cấp nền kinh tế nên thời kỳ quá độ sinh thái, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng không.
Ngay cả khi khái niệm “chủ nghĩa tư bản có trách nhiệm” được đề xuất nhằm khắc phục phần nào sự suy kiệt tài nguyên thiên nhiên, và bù đắp cho những ngoại ứng tiêu cực thì vẫn không đủ. Bởi, một khi thế giới còn mải mê theo đuổi tăng trưởng quy mô mà không chú trọng yếu tố “bền vững,” một cơn khủng hoảng môi trường xã hội toàn diện là điều sẽ xảy ra, không sớm thì muộn.
Phạm Việt Anh
Bloomberg Businessweek Việt Nam (2023).